“Trọng nam khinh nữ” là một hệ tư tưởng tồn tại vào thời kỳ đầu Trước Công Nguyên đã ăn nhập trong lối sống, suy nghĩ của nhiều dân tộc, quốc gia đặc biệt là các nước khu vực châu Á, châu Phi. Trong hàng thập kỷ qua, hậu quả của định kiến giới đã dẫn tới thiếu hụt 140 triệu trẻ em gái trên thế giới. Sự mất cân bằng này đã gián tiếp gây các vấn nạn tiêu cực như tảo hôn, xâm hại tình dục và buôn bán phụ nữ… khiến nhiều quốc phải đương đầu với các hệ lụy xã hội và khó đạt được các mục tiêu phát triển do không phát huy được vị thế của giới nữ.
Phong trào Nữ quyền và thành tựu xóa bỏ định kiến giới
Nếu như xóa bỏ định kiến giới được cho là con đường để phát triển nữ quyền, thì ở chiều ngược lại nữ quyền chính là chìa khoá tạo ra sự cân bằng quyền lợi, điều kiện phát triển, cơ hô??i cô??ng hiến cho tâ??t cả mọi người đặc biệt là nữ giới, từ đó xóa bỏ định kiến về giới. Đây là điều kiện tiên quyết để tạo nên mô??t xã hô??i công bằng, văn minh và thịnh vượng. Nhận thức được vâ??n đề này, trong hàng thế kỷ qua; nhiều nước đã xây dựng chiến lược, quyết sách hướng tới bình quyền nam - nữ và đảm bảo phát triển nữ quyền. Song song với đó, phong trào nữ quyền cũng được đẩy mạnh và lan rô??ng khắp nơi nhằm chô??ng lại định kiến giới và đâ??u tranh cho quyền của phụ nữ trong mọi lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, xã hô??i, gia đình và cá nhân…
Các nước phương Tây được cho là điểm khởi nguô??n các làn sóng nữ quyền vào cuô??i thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Làn sóng thứ nhâ??t được khởi xướng nhằm thúc đẩy quyền bầu cử của phụ nữ ở thế kỉ XIX, XX. Làn sóng thứ hai được kết hợp với những ý tưởng và hành đô??ng giải phóng phụ nữ từ những năm 1960. Làn sóng thứ ba bắt đầu từ những năm 1990, được xem là sự tiếp nô??i nhằm cải thiện sự thâ??t bại của hai làn sóng trước đó, mục tiêu chính của làn sóng này là đề cao sự khác biệt và đa dạng của các cá nhân trong xã hô??i, đô??ng thời thay đổi những định kiến về ‘tính nữ’. Nhờ công nghệ truyền thông phát triển, làn sóng thứ 3 được cho là mạnh mẽ và sâu rô??ng nhâ??t và cũng bền bỉ nhâ??t đã mang tới những thành tựu rõ rệt. Hiện trên thế giới có râ??t nhiều kênh truyền thông như Podcast, Youtube... tuyên truyền về quyền nữ giới nói riêng và bình đẳng giới nói chung như The guilty Feminist, Feminist Survival Project, Woman’s Hour,…; các kênh tập trung đến sự phát triển bản thân của nữ giới như Sunhuyn, Laci Green hay Malama Life,... Song song với đó, nhiều thương hiệu thời trang, mỹ phẩm lớn đã tập trung hướng đến nữ giới và tôn vinh vai trò phụ nữ trong xã hô??i thông qua các chiến dịch quảng cáo ủng hô?? nữ quyền… đã góp phần không nhỏ trong việc giúp phụ nữ nhìn nhận đúng và nâng cao giá trị bản thân, mạnh mẽ, tự tin bước ra thế giới.
Ngoài ra, có nhiều tổ chức nữ quyền nổi tiếng như: Quỹ phát triển phụ nữ châu Phi toàn cầu nhằm giảm nghèo và trao quyền phụ nữ bằng cách cung câ??p khoản vay nhỏ và đào tạo trong các lĩnh vực như kinh doanh, tăng gia, sản xuâ??t...; tổ chức Phụ nữ Liên hợp quốc (UN Women) tập trung vào việc củng cô?? sự tham gia của nữ giới trong chính trị và kinh tế cùng với việc ngăn ngừa bạo lực và bệnh truyền nhiễm HIV/AIDs đô??i với phụ nữ...
Nhờ những nô?? lực của phong trào nữ quyền, sô?? lượng lãnh đạo nữ trong Chính phủ và các tổ chức quô??c tế gia tăng đáng kể. Năm 2020, tính trên toàn thế giới, phụ nữ chiếm 25% thành viên quô??c hô??i, trong đó nước Rwanda có nhiều thành viên nữ nhâ??t (61%); Có 14 quô??c gia có tỷ lệ phụ nữ trong nô??i các chiếm hơn 50%.
Năm 2021, theo theo báo cáo thường niên về đề tài “Phụ nữ trong kinh doanh” do Grant Thornton International: Tỉ lệ phụ nữ giữ các vai trò câ??p cao trên toàn cầu đã đạt tỷ lệ 31%, đây là mô??t mô??c phát triển vượt bậc so với sự tăng trưởng 19% của cách đây 17 năm.
Nghiên cứu của Grant Thornton International cũng cho thâ??y, sô?? lượng phụ nữ đảm nhận các vai trò trong C-suite cao hơn so với năm ngoái, với tỷ lệ nữ Giám đô??c điều hành (CEO) đạt 26% (tăng 6 điểm phần trăm), nữ Giám đô??c tài chính (CFO) đạt 36% (tăng 6 điểm phần trăm) và nữ Giám đô??c vận hành (COO) tăng 4 điểm phần trăm lên 22%... Tuy nhiên, dù vẫn liên tục gia tăng ở hầu hết vị trí, ngành nghề song so với nam giới, sô?? lượng lãnh đạo nữ vẫn còn khá khiêm tô??n.
Các nước phương Tây được cho là điểm khởi nguô??n các làn sóng nữ quyền vào cuô??i thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Làn sóng thứ nhâ??t được khởi xướng nhằm thúc đẩy quyền bầu cử của phụ nữ ở thế kỉ XIX, XX. Làn sóng thứ hai được kết hợp với những ý tưởng và hành đô??ng giải phóng phụ nữ từ những năm 1960. Làn sóng thứ ba bắt đầu từ những năm 1990, được xem là sự tiếp nô??i nhằm cải thiện sự thâ??t bại của hai làn sóng trước đó, mục tiêu chính của làn sóng này là đề cao sự khác biệt và đa dạng của các cá nhân trong xã hô??i, đô??ng thời thay đổi những định kiến về ‘tính nữ’. Nhờ công nghệ truyền thông phát triển, làn sóng thứ 3 được cho là mạnh mẽ và sâu rô??ng nhâ??t và cũng bền bỉ nhâ??t đã mang tới những thành tựu rõ rệt. Hiện trên thế giới có râ??t nhiều kênh truyền thông như Podcast, Youtube... tuyên truyền về quyền nữ giới nói riêng và bình đẳng giới nói chung như The guilty Feminist, Feminist Survival Project, Woman’s Hour,…; các kênh tập trung đến sự phát triển bản thân của nữ giới như Sunhuyn, Laci Green hay Malama Life,... Song song với đó, nhiều thương hiệu thời trang, mỹ phẩm lớn đã tập trung hướng đến nữ giới và tôn vinh vai trò phụ nữ trong xã hô??i thông qua các chiến dịch quảng cáo ủng hô?? nữ quyền… đã góp phần không nhỏ trong việc giúp phụ nữ nhìn nhận đúng và nâng cao giá trị bản thân, mạnh mẽ, tự tin bước ra thế giới.
Ngoài ra, có nhiều tổ chức nữ quyền nổi tiếng như: Quỹ phát triển phụ nữ châu Phi toàn cầu nhằm giảm nghèo và trao quyền phụ nữ bằng cách cung câ??p khoản vay nhỏ và đào tạo trong các lĩnh vực như kinh doanh, tăng gia, sản xuâ??t...; tổ chức Phụ nữ Liên hợp quốc (UN Women) tập trung vào việc củng cô?? sự tham gia của nữ giới trong chính trị và kinh tế cùng với việc ngăn ngừa bạo lực và bệnh truyền nhiễm HIV/AIDs đô??i với phụ nữ...
Nhờ những nô?? lực của phong trào nữ quyền, sô?? lượng lãnh đạo nữ trong Chính phủ và các tổ chức quô??c tế gia tăng đáng kể. Năm 2020, tính trên toàn thế giới, phụ nữ chiếm 25% thành viên quô??c hô??i, trong đó nước Rwanda có nhiều thành viên nữ nhâ??t (61%); Có 14 quô??c gia có tỷ lệ phụ nữ trong nô??i các chiếm hơn 50%.
Năm 2021, theo theo báo cáo thường niên về đề tài “Phụ nữ trong kinh doanh” do Grant Thornton International: Tỉ lệ phụ nữ giữ các vai trò câ??p cao trên toàn cầu đã đạt tỷ lệ 31%, đây là mô??t mô??c phát triển vượt bậc so với sự tăng trưởng 19% của cách đây 17 năm.
Nghiên cứu của Grant Thornton International cũng cho thâ??y, sô?? lượng phụ nữ đảm nhận các vai trò trong C-suite cao hơn so với năm ngoái, với tỷ lệ nữ Giám đô??c điều hành (CEO) đạt 26% (tăng 6 điểm phần trăm), nữ Giám đô??c tài chính (CFO) đạt 36% (tăng 6 điểm phần trăm) và nữ Giám đô??c vận hành (COO) tăng 4 điểm phần trăm lên 22%... Tuy nhiên, dù vẫn liên tục gia tăng ở hầu hết vị trí, ngành nghề song so với nam giới, sô?? lượng lãnh đạo nữ vẫn còn khá khiêm tô??n.
Ở Việt Nam, đâ??u tranh nữ quyền đã nhen nhóm từ nhiều thế kỷ trước song nó thực sự rõ nét kể từ khi có sự ra đời của chữ Quô??c ngữ. Đến năm 1930, các nhà yêu nước đã dùng phong trào nữ quyền như mô??t cách đâ??u tranh phi bạo lực để chô??ng áp bức. Ngọn cờ nữ quyền thời kỳ này có sự góp mặt của nhiều phụ nữ có nhân cách, chí khí thiên hướng cách mạng như bà Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Giang, Nguyễn Thị Kiêm... Song, phong trào chưa thật sự mạnh mẽ do phần lớn phụ nữ Việt Nam phần lớn ít học lại bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng nho giáo“trọng nam khinh nữ”, từ xưa đến nay luôn đóng mình trong khuôn mẫu truyền thô??ng: Tần tảo, dịu dàng, hết lòng hi sinh cho chô??ng con, nên dù mong muô??n được bình quyền cũng không đủ ý chí để thoát khỏi định kiến. Tuy nhiên, phong trào nữ quyền Việt Nam đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao nhận thức về vị trí nữ giới, thúc đẩy bình đẳng giới.
Từ năm 1945, trong nhiều văn bản, Chính phủ đã nhâ??n mạnh nam giới và nữ giới đều có quyền ngang nhau trên mọi phương diện. Hiến pháp năm 1946 đã quy định: “Nước Việt Nam là mô??t nước dân chủ cô??ng hòa. Tâ??t cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giô??ng, gái trai, giàu nghèo, giai câ??p, tôn giáo”. Hiến pháp năm 2013, quy định rõ: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hô??i bình đẳng giới”, “Nhà nước, xã hô??i và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hô??i”, “Nghiêm câ??m phân biệt đô??i xử về giới”.
Việt Nam cũng đã ký kết tham gia Công ước quô??c tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đô??i xử chô??ng lại phụ nữ (Công ước CEDAW); từng bước luật hóa văn bản pháp luật và các chính sách có liên quan đến bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ, như: Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chô??ng bạo lực gia đình; Luật Hôn nhân và gia đình; Bô?? luật Hình sự; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật,...
Đây là những cơ sở quan trọng để Việt Nam đẩy lùi xã hô??i trọng nam, khinh nữ, đẩy mạnh bình đẳng giới, đảm bảo phát triển nữ quyền. Theo đó,“xóa mù chữ cho phụ nữ” được coi là giải pháp hàng đầu và quan trọng nhâ??t trong thực hiện nữ quyền. Thông qua các lớp “bình dân học vụ”, sô?? phụ nữ được“đến trường” tăng lên nhanh chóng trong thập niên 50 của thế kỷ trước. Sau đó, nhờ hệ thô??ng giáo dục công lập phát triển đã giúp hàng triệu phụ nữ có cơ hô??i học tập, nâng cao trình đô??. Đến nay, Việt Nam là mô??t trong nhóm những nước có tỷ lệ nữ có bằng câ??p đại học và trên đại học cao nhâ??t trong khu vực. Theo sô?? liệu Tổng điều tra dân sô?? và nhà ở năm 2019, tỷ lệ nữ tiến sĩ đã tăng 28% trong tổng sô?? tiến sĩ, vượt chỉ tiêu (25%) đặt ra đến năm 2020; tỷ lệ nữ thạc sĩ trên tổng sô?? thạc sĩ đạt 43%... Với trình đô??, kiến thức ngày càng cập nhật, phụ nữ Việt Nam đã tự tin và mạnh mẽ bước vào chính trường, làm tô??t 2 vai: “giỏi việc nước, đảm việc nhà””, góp phần tô đẹp hình ảnh phụ nữ Việt Nam truyền thô??ng.
Nhiệm kỳ 2016 - 2021, Việt Nam có tỷ lệ nữ ủy viên Bô?? Chính trị là 15,8%, tăng 3,3% so với nhiệm kỳ trước, tỷ lệ nữ ủy viên Trung ương là 10%, tăng 1,5%. Bên cạnh đó, tỷ lệ nữ ủy viên câ??p tỉnh là 13,3%, câ??p huyện là 14,3% và câ??p cơ sở là 19,69% đều tăng so với nhiệm kỳ trước.
Mô??t con sô?? â??n tượng nữa là trong đại biểu Quô??c hô??i khóa XV, có 151 đại biểu là nữ, chiếm tỷ lệ 30,26%, tăng 3,54% so với nhiệm kỳ trước. Đây là lần thứ hai tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam đạt trên 30% (lần đầu tiên là Quốc hội khoá V, đạt 32,31%).
Kết quả Đại hô??i đảng câ??p cơ sở nhiệm kỳ 2020 - 2025 cho thâ??y, tỷ lệ nữ tham gia câ??p ủy đạt 25,6%, tăng 4,2% so với nhiệm kỳ trước; câ??p huyện đạt 20,1%, cao hơn 1,9% so với nhiệm kỳ trước.
Không chỉ bước vào chính trường, ngày càng nhiều phụ nữ Việt Nam khẳng định được vị trí của mình trong lĩnh vực kinh doanh, phát triển kinh tế…Theo báo cáo Grant Thornton quô??c tế, tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp đã tăng từ 20% năm 2011 lên 24% năm 2019 và đạt 39% vào năm 2021 (tăng 6% so với năm 2020 và cao hơn 9% so với toàn cầu, xếp thứ 3 trong sô?? 29 quô??c gia trên thế giới được khảo sát, sau Philippines và Nam Phi). Các vị trí hàng đầu thường được phụ nữ đảm nhận trong doanh nghiệp tại Việt Nam là Giám đô??c tài chính với tỉ lệ 60% (tăng từ 32% của năm 2020) đưa Việt Nam đứng sô?? 1 tại Châu Á - Thái Bình Dương; Vị trí Giám đô??c Nhân sự đứng thứ hai với 59%...
Những con sô?? trên là minh chứng cho thâ??y thành tựu đáng tự hào trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ, giải phóng con người của Đảng, Nhà nước ta và cũng khẳng định sự vươn lên không ngừng của phụ nữ Việt Nam.
Tuy đạt được râ??t nhiều thành tựu trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ, song với nhiều quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng vâ??n đang phải đối mặt với râ??t nhiều hệ lụy từ định kiện giới, giờ đây “Bình đẳng giới không phải vâ??n đề giữa đàn ông và phụ nữ, mà là giữa con người và định kiến”. Định kiến cho rằng, phụ nữ yếu đuô??i chỉ hợp với công việc nô??i trợ, phụ nữ bận sinh con sẽ không có thời gian phát triển nghề nghiệp...Nhiều công ty để đảm bảo lợi ích kinh tế đã tuyên bô?? không nhận lao đô??ng nữ, điều đó vô hình chung đã tạo nên chế đô?? phân biệt đô??i xử với nữ giới và tước đi cơ hô??i phát triển nghề nghiệp của họ. Theo báo cáo năm 2021 của Grant Thornton International, trở ngại đô??i với nhà lãnh đạo câ??p cao nữ ở Việt Nam là thiếu cơ hô??i phát triển nghề nghiệp, tỉ lệ này ở Việt Nam là 40% cao hơn nhiều so với tỉ lệ 27% của toàn cầu. Bên cạnh đó, mô??t thực tế đáng lo ngại là tâm lý “ưa thích con trai” vẫn râ??t phổ biến ở Việt Nam.
Kết quả Tổng điều tra dân sô?? năm 2019 của Việt Nam cho biết, những năm gần đây, tỷ sô?? giới tính khi sinh (tỷ lệ bé trai sơ sinh trên 100 bé gái sơ sinh) khá cao, luôn mức trên 110: Năm 2018 là 114,8; năm 2019 tỷ sô?? giới tính khi sinh giảm ở mức 111,5; năm 2021 con sô?? này lại tăng đến 112, trong khi tỷ sô?? “tự nhiên” hoặc “bình thường” dao đô??ng khoảng 105-106. Báo cáo Tình trạng dân sô?? Thế giới 2020 ước tính Việt Nam sẽ thiếu hụt khoảng 45.000 trẻ sơ sinh gái mô??i năm. Đây được cho là hệ lụy nan giải do định kiến giới mà Việt Nam râ??t cần những giải pháp mạnh mẽ hơn nữa để khắc phục.
Chính vì vậy, trong giai đoạn tới, để tiếp tục đẩy mạnh bình đẳng giới và phát triển nữ quyền, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược quô??c gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030. Mục tiêu cụ thể của chiến lược, trong lĩnh vực chính trị, đến năm 2025 đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các câ??p có lãnh đạo chủ chô??t là nữ; trong lĩnh vực kinh tế, lao đô??ng, tăng tỷ lệ lao đô??ng nữ làm công hưởng lương lên, đạt 50% vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030; giảm tỷ trọng lao đô??ng nữ làm việc trong khu vực nông nghiệp trong tổng sô?? lao đô??ng nữ có việc làm xuô??ng dưới 30% vào năm 2025 và dưới 25% vào năm 2030; tỷ lệ nữ giám đô??c/chủ doanh nghiệp, hợp tác xã đạt ít nhâ??t 27% vào năm 2025 và 30% vào năm 2030. Trong đời sô??ng gia đình, giảm sô?? giờ trung bình làm công việc nô??i trợ và chăm sóc trong gia đình của phụ nữ còn 1,7 lần vào năm 2025 và 1,4 lần vào năm 2030 so với nam giới...
Để thực hiện thành công mục tiêu chiến lược, cần tập trung vào những giải pháp sau:
Từ năm 1945, trong nhiều văn bản, Chính phủ đã nhâ??n mạnh nam giới và nữ giới đều có quyền ngang nhau trên mọi phương diện. Hiến pháp năm 1946 đã quy định: “Nước Việt Nam là mô??t nước dân chủ cô??ng hòa. Tâ??t cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giô??ng, gái trai, giàu nghèo, giai câ??p, tôn giáo”. Hiến pháp năm 2013, quy định rõ: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hô??i bình đẳng giới”, “Nhà nước, xã hô??i và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hô??i”, “Nghiêm câ??m phân biệt đô??i xử về giới”.
Việt Nam cũng đã ký kết tham gia Công ước quô??c tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đô??i xử chô??ng lại phụ nữ (Công ước CEDAW); từng bước luật hóa văn bản pháp luật và các chính sách có liên quan đến bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ, như: Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chô??ng bạo lực gia đình; Luật Hôn nhân và gia đình; Bô?? luật Hình sự; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật,...
Đây là những cơ sở quan trọng để Việt Nam đẩy lùi xã hô??i trọng nam, khinh nữ, đẩy mạnh bình đẳng giới, đảm bảo phát triển nữ quyền. Theo đó,“xóa mù chữ cho phụ nữ” được coi là giải pháp hàng đầu và quan trọng nhâ??t trong thực hiện nữ quyền. Thông qua các lớp “bình dân học vụ”, sô?? phụ nữ được“đến trường” tăng lên nhanh chóng trong thập niên 50 của thế kỷ trước. Sau đó, nhờ hệ thô??ng giáo dục công lập phát triển đã giúp hàng triệu phụ nữ có cơ hô??i học tập, nâng cao trình đô??. Đến nay, Việt Nam là mô??t trong nhóm những nước có tỷ lệ nữ có bằng câ??p đại học và trên đại học cao nhâ??t trong khu vực. Theo sô?? liệu Tổng điều tra dân sô?? và nhà ở năm 2019, tỷ lệ nữ tiến sĩ đã tăng 28% trong tổng sô?? tiến sĩ, vượt chỉ tiêu (25%) đặt ra đến năm 2020; tỷ lệ nữ thạc sĩ trên tổng sô?? thạc sĩ đạt 43%... Với trình đô??, kiến thức ngày càng cập nhật, phụ nữ Việt Nam đã tự tin và mạnh mẽ bước vào chính trường, làm tô??t 2 vai: “giỏi việc nước, đảm việc nhà””, góp phần tô đẹp hình ảnh phụ nữ Việt Nam truyền thô??ng.
Nhiệm kỳ 2016 - 2021, Việt Nam có tỷ lệ nữ ủy viên Bô?? Chính trị là 15,8%, tăng 3,3% so với nhiệm kỳ trước, tỷ lệ nữ ủy viên Trung ương là 10%, tăng 1,5%. Bên cạnh đó, tỷ lệ nữ ủy viên câ??p tỉnh là 13,3%, câ??p huyện là 14,3% và câ??p cơ sở là 19,69% đều tăng so với nhiệm kỳ trước.
Mô??t con sô?? â??n tượng nữa là trong đại biểu Quô??c hô??i khóa XV, có 151 đại biểu là nữ, chiếm tỷ lệ 30,26%, tăng 3,54% so với nhiệm kỳ trước. Đây là lần thứ hai tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam đạt trên 30% (lần đầu tiên là Quốc hội khoá V, đạt 32,31%).
Kết quả Đại hô??i đảng câ??p cơ sở nhiệm kỳ 2020 - 2025 cho thâ??y, tỷ lệ nữ tham gia câ??p ủy đạt 25,6%, tăng 4,2% so với nhiệm kỳ trước; câ??p huyện đạt 20,1%, cao hơn 1,9% so với nhiệm kỳ trước.
Không chỉ bước vào chính trường, ngày càng nhiều phụ nữ Việt Nam khẳng định được vị trí của mình trong lĩnh vực kinh doanh, phát triển kinh tế…Theo báo cáo Grant Thornton quô??c tế, tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp đã tăng từ 20% năm 2011 lên 24% năm 2019 và đạt 39% vào năm 2021 (tăng 6% so với năm 2020 và cao hơn 9% so với toàn cầu, xếp thứ 3 trong sô?? 29 quô??c gia trên thế giới được khảo sát, sau Philippines và Nam Phi). Các vị trí hàng đầu thường được phụ nữ đảm nhận trong doanh nghiệp tại Việt Nam là Giám đô??c tài chính với tỉ lệ 60% (tăng từ 32% của năm 2020) đưa Việt Nam đứng sô?? 1 tại Châu Á - Thái Bình Dương; Vị trí Giám đô??c Nhân sự đứng thứ hai với 59%...
Những con sô?? trên là minh chứng cho thâ??y thành tựu đáng tự hào trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ, giải phóng con người của Đảng, Nhà nước ta và cũng khẳng định sự vươn lên không ngừng của phụ nữ Việt Nam.
Tuy đạt được râ??t nhiều thành tựu trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ, song với nhiều quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng vâ??n đang phải đối mặt với râ??t nhiều hệ lụy từ định kiện giới, giờ đây “Bình đẳng giới không phải vâ??n đề giữa đàn ông và phụ nữ, mà là giữa con người và định kiến”. Định kiến cho rằng, phụ nữ yếu đuô??i chỉ hợp với công việc nô??i trợ, phụ nữ bận sinh con sẽ không có thời gian phát triển nghề nghiệp...Nhiều công ty để đảm bảo lợi ích kinh tế đã tuyên bô?? không nhận lao đô??ng nữ, điều đó vô hình chung đã tạo nên chế đô?? phân biệt đô??i xử với nữ giới và tước đi cơ hô??i phát triển nghề nghiệp của họ. Theo báo cáo năm 2021 của Grant Thornton International, trở ngại đô??i với nhà lãnh đạo câ??p cao nữ ở Việt Nam là thiếu cơ hô??i phát triển nghề nghiệp, tỉ lệ này ở Việt Nam là 40% cao hơn nhiều so với tỉ lệ 27% của toàn cầu. Bên cạnh đó, mô??t thực tế đáng lo ngại là tâm lý “ưa thích con trai” vẫn râ??t phổ biến ở Việt Nam.
Kết quả Tổng điều tra dân sô?? năm 2019 của Việt Nam cho biết, những năm gần đây, tỷ sô?? giới tính khi sinh (tỷ lệ bé trai sơ sinh trên 100 bé gái sơ sinh) khá cao, luôn mức trên 110: Năm 2018 là 114,8; năm 2019 tỷ sô?? giới tính khi sinh giảm ở mức 111,5; năm 2021 con sô?? này lại tăng đến 112, trong khi tỷ sô?? “tự nhiên” hoặc “bình thường” dao đô??ng khoảng 105-106. Báo cáo Tình trạng dân sô?? Thế giới 2020 ước tính Việt Nam sẽ thiếu hụt khoảng 45.000 trẻ sơ sinh gái mô??i năm. Đây được cho là hệ lụy nan giải do định kiến giới mà Việt Nam râ??t cần những giải pháp mạnh mẽ hơn nữa để khắc phục.
Chính vì vậy, trong giai đoạn tới, để tiếp tục đẩy mạnh bình đẳng giới và phát triển nữ quyền, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược quô??c gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030. Mục tiêu cụ thể của chiến lược, trong lĩnh vực chính trị, đến năm 2025 đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các câ??p có lãnh đạo chủ chô??t là nữ; trong lĩnh vực kinh tế, lao đô??ng, tăng tỷ lệ lao đô??ng nữ làm công hưởng lương lên, đạt 50% vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030; giảm tỷ trọng lao đô??ng nữ làm việc trong khu vực nông nghiệp trong tổng sô?? lao đô??ng nữ có việc làm xuô??ng dưới 30% vào năm 2025 và dưới 25% vào năm 2030; tỷ lệ nữ giám đô??c/chủ doanh nghiệp, hợp tác xã đạt ít nhâ??t 27% vào năm 2025 và 30% vào năm 2030. Trong đời sô??ng gia đình, giảm sô?? giờ trung bình làm công việc nô??i trợ và chăm sóc trong gia đình của phụ nữ còn 1,7 lần vào năm 2025 và 1,4 lần vào năm 2030 so với nam giới...
Để thực hiện thành công mục tiêu chiến lược, cần tập trung vào những giải pháp sau:
Nâng cao hơn nữa nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân về bình đẳng giới thông qua việc đẩy mạnh tuyên truyền về vai trò nữ giới, quyền nữ giới trong xã hô??i, các luật về bình đẳng giới.
Triển khai và thực hiện tô??t Luật Bình đẳng giới (được Quô??c hô??i thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực ngày 01/7/2007) nhằm đảm bảo mục tiêu xoá bỏ phân biệt đô??i xử về giới, tạo cơ hô??i như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hô??i và phát triển nguô??n nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực châ??t giữa nam, nữ và thiết lập, củng cô?? quan hệ hợp tác, hô?? trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sô??ng xã hô??i và gia đình. Hoàn thiện và củng cô?? hệ thô??ng quy định, pháp lý, thực hiện các chính sách, chủ trương nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và nữ quyền.
Thu hẹp khoảng cách về giới trong mọi khía cạnh của đời sô??ng như trong gia đình, trong công việc, trong lĩnh vực chính trị - xã hô??i. Thông qua việc tuyển dụng, đào tạo, phân công công việc, tạo cơ hô??i phát triển trình đô??, nghề nghiệp; xây dựng chế đô?? thụ hưởng, tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe đều hướng tới đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ. Kịp thời tuyên dương, khen thưởng và nhân rô??ng các mô hình tiêu biểu về bình đẳng giới và phát triển nữ quyền.
Chủ tịch Hô?? Chí Minh từng khẳng định: “... Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng mô??t nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hô??i chỉ mô??t nửa”. Vì vậy, giải phóng phụ nữ không chỉ là công việc riêng của phụ nữ mà gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tô??c, giải phóng giai câ??p, giải phóng con người. Mô??t sự nghiệp mà Đảng, nhà nước, Chính phủ và toàn thể nhân dân phải chung sức đô??ng lòng và đi đến tận cùng để đập tan định kiến giới, giúp nữ giới phát huy tô??t nhâ??t sức mạnh nữ quyền vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đâ??t nước./.
Khánh Huyền
Trang web giải trí Hula