Vấn đề di cư đang trở thành mối quan tâm lớn ở Việt Nam khi lượng ng??ời dân di cư giữa các tỉnh, thành phố có xu hướng ngày càng gia tăng. Nghiên cứu PAPI năm 2020 đã thực hiện khảo sát thí điểm với 308 ng??ời có hộ khẩu tạm trú tại 6 tỉnh/thành phố có số ng??ời nhập cư nhiều nhất (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Đà Nẵng, Đồng Nai và Bình Dương). Kết quả phân tích cho thấy phần nào tác động của di cư nội địa tới hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở 6 tỉnh, thành phố tiếp nhận lượng ng??ời di cư nội địa lớn nhất.
Khác biệt từ góc độ nhân khẩu học
Nghiên cứu PAPI 2020 cho thấy có những khác biệt rõ ràng giữa các nhóm dân cư khi phân tích phân tổ theo các yếu tố nhân khẩu học. So với nhóm ng??ời có hộ khẩu thường trú, những ng??ời có hộ khẩu tạm trú có xu hướng nghèo hơn. Thu nhập của họ cũng thấp hơn. Ng??ời nhập cư trẻ hơn ng??ời thường trú khoảng 11 tuổi, có trình độ học vấn thấp hơn và nhiều ng??ời trong số đó là phụ nữ. Họ ít có các mối quan hệ với chính quyền hơn: chỉ có 3% người nhập cư là Đảng viên, so với 10% trong nhóm mẫu có hộ khẩu thường trú. Ngoài thực tế ng??ời nhập cư không biết nhiều về nơi họ đang tạm trú, họ cũng thiếu nguồn lực cần thiết để tự vận động chính sách vì lợi ích của ng??ời nhập cư.
Ảnh minh họa, nguồn Internet
Sự khác biệt về trải nghiệm và cảm nhận của ng??ời có hộ khẩu thường trú và tạm trú cũng ở mức khác nhau khi phân tích theo 6 tỉnh, thành phố. Mức chênh lệch giữa hai nhóm mẫu ở Đà Nẵng là thấp nhất. Ngược lại, ng??ời nhập cư ở Bắc Ninh trải nghiệm sự bất bình đẳng nhiều nhất bởi khoảng cách trong kết quả đánh giá của họ đối với hiệu quả quản trị và hành chính công ở Bắc Ninh thấp hơn so với ng??ời có hộ khẩu thường trú tại tỉnh. Khi phân tích mức chênh lệch về cảm nhận và trải nghiệm của ng??ời nhập cư so với ng??ời thường trú theo 8 chỉ số nội dung PAPI. Mức chênh lệch này thể hiện rõ nhất ở 4 chỉ số nội dung (1) Tham gia của ng??ời dân ở cấp cơ sở; (2) Công khai, minh bạch trong việc ra quyết định ở địa phương; (3) Trách nhiệm giải trình với ng??ời dân và (4) Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công. Khoảng cách lớn nhất về ở chỉ số nội dung "Tham gia của ng??ời dân ở cấp cơ sở" có thể là do những ng??ời có hộ khẩu tạm trú không được mời tham gia đóng góp ý kiến trong các chương trình, dự án tại địa phương họ tạm trú. Điều đáng lưu ý là ở những nội dung khác quan trọng hơn. Ví dụ, ng??ời nhập cư cho rằng họ ít được tiếp cận thông tin hơn, ít có khả năng khiếu nại, tố giác hơn, ít có điều kiện tiếp xúc cán bộ, công chức địa phương hơn và dễ bị vòi vĩnh, đòi hối lộ hơn.
Động cơ thúc đẩy di cư
Báo cáo PAPI 2020 cũng tìm hiểu động cơ thúc đẩy ng??ời dân di cư, xem ai muốn rời khỏi quê hương và họ di cư tới đâu. Theo kết quả khảo sát, chỉ có 6,48% số ng??ời được hỏi cho biết họ muốn di cư lâu dài ra khỏi địa phương họ đang cư trú. Các tỉnh Tây Nguyên và miền Trung có tỉ lệ ng??ời mong muốn rời đi nhiều nhất. Có tới 19% số ng??ời được hỏi ở tỉnh Đắk Nông cho biết họ muốn chuyển đi nơi khác.
Trái lại, tương tự với phát hiện nghiên cứu ở nhiều quốc gia khác, ng??ời đang sống ở các thành phố lớn ít có nhu cầu di cư hơn. Số ng??ời dân Cần Thơ và TP. Hồ Chí Minh mong muốn rời đi rất thấp. Hai địa điểm được ưa chuộng nhất là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Có tới 22% số ng??ời trả lời chọn TP. Hồ Chí Minh là nơi họ mong muốn chuyển đến, cao gấp đôi so với tỷ lệ mong muốn di chuyển tới Hà Nội. Lâm Đồng là tỉnh hấp dẫn ng??ời di cư thứ ba với tỷ lệ 5,6% số ng??ời được hỏi chọn Lâm Đồng là điểm đến. Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Dương và Đồng Nai cũng là những nơi phổ biến, khoảng với 4-6% số ng??ời trả lời lựa chọn chuyển tới. Điều này cho thấy, tương tự ở nhiều quốc gia khác, phần lớn ng??ời di cư muốn chuyển tới các đô thị lớn và các vùng phụ cận trong nước.
Theo kết quả phân tích tổng mẫu, lý do chính khiến ng??ời dân chọn di cư là đoàn tụ gia đình (chiếm gần 50%). Có việc làm tốt hơn và môi trường tự nhiên tốt hơn là hai lý do tiếp theo được nhiều ng??ời trả lời đưa ra. Tại 4 tỉnh, thành phố là điểm đến được lựa chọn (TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Lâm Đồng) có thể thấy những lý do họ lựa chọn tới các điểm đến khá đa dạng. TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng thường được chọn vì lý do đoàn tụ gia đình và cơ hội việc làm, đa số ng??ời di cư chọn Lâm Đồng vì môi trường tự nhiên tốt hơn.
Về mong muốn di cư quốc tế, rất ít ng??ời trả lời cho biết họ sẽ di cư ra nước ngoài. Chỉ có dưới 1% cho biết họ muốn ra nước ngoài sinh sống nếu họ di cư và các quốc gia được lựa chọn là Mỹ, Nhật và Úc. Tỉ lệ này cũng nhất quán với nhiều nghiên cứu quốc tế cho rằng phần lớn ng??ời dân không nghĩ tới di cư quốc tế trừ khi trung gian môi giới tiếp cận và khuyến khích.
Nghiên cứu PAPI 2020 cũng tìm hiểu các yếu tố tác động tới nhu cầu di cư. Kết quả phân tích cho thấy, những ng??ời nam còn trẻ là nhóm mong muốn di trú nhất, cho dù thu nhập hiện thời của họ cao hay thấp. Đặc biệt, những ng??ời sẵn sàng chấp nhận rủi ro và hiện sống ở nông thôn có xu hướng muốn di trú tới các khu đô thị và vùng phụ cận đô thị hơn. Nếu họ có ng??ời thân đang an cư lạc nghiệp ở những nơi họ muốn đến, thì yếu tố này thúc đẩy họ di cư mạnh mẽ hơn. Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của quan hệ thân tộc.
Điểm đáng chú ý nữa là mức độ phát triển của một địa phương cũng là lực hấp dẫn dân nhập cư, trong khi yếu tố tăng thu nhập cá nhân không phải là động cơ tiên quyết dẫn tới di cư.
Trái lại, tương tự với phát hiện nghiên cứu ở nhiều quốc gia khác, ng??ời đang sống ở các thành phố lớn ít có nhu cầu di cư hơn. Số ng??ời dân Cần Thơ và TP. Hồ Chí Minh mong muốn rời đi rất thấp. Hai địa điểm được ưa chuộng nhất là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Có tới 22% số ng??ời trả lời chọn TP. Hồ Chí Minh là nơi họ mong muốn chuyển đến, cao gấp đôi so với tỷ lệ mong muốn di chuyển tới Hà Nội. Lâm Đồng là tỉnh hấp dẫn ng??ời di cư thứ ba với tỷ lệ 5,6% số ng??ời được hỏi chọn Lâm Đồng là điểm đến. Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Dương và Đồng Nai cũng là những nơi phổ biến, khoảng với 4-6% số ng??ời trả lời lựa chọn chuyển tới. Điều này cho thấy, tương tự ở nhiều quốc gia khác, phần lớn ng??ời di cư muốn chuyển tới các đô thị lớn và các vùng phụ cận trong nước.
Theo kết quả phân tích tổng mẫu, lý do chính khiến ng??ời dân chọn di cư là đoàn tụ gia đình (chiếm gần 50%). Có việc làm tốt hơn và môi trường tự nhiên tốt hơn là hai lý do tiếp theo được nhiều ng??ời trả lời đưa ra. Tại 4 tỉnh, thành phố là điểm đến được lựa chọn (TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Lâm Đồng) có thể thấy những lý do họ lựa chọn tới các điểm đến khá đa dạng. TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng thường được chọn vì lý do đoàn tụ gia đình và cơ hội việc làm, đa số ng??ời di cư chọn Lâm Đồng vì môi trường tự nhiên tốt hơn.
Về mong muốn di cư quốc tế, rất ít ng??ời trả lời cho biết họ sẽ di cư ra nước ngoài. Chỉ có dưới 1% cho biết họ muốn ra nước ngoài sinh sống nếu họ di cư và các quốc gia được lựa chọn là Mỹ, Nhật và Úc. Tỉ lệ này cũng nhất quán với nhiều nghiên cứu quốc tế cho rằng phần lớn ng??ời dân không nghĩ tới di cư quốc tế trừ khi trung gian môi giới tiếp cận và khuyến khích.
Nghiên cứu PAPI 2020 cũng tìm hiểu các yếu tố tác động tới nhu cầu di cư. Kết quả phân tích cho thấy, những ng??ời nam còn trẻ là nhóm mong muốn di trú nhất, cho dù thu nhập hiện thời của họ cao hay thấp. Đặc biệt, những ng??ời sẵn sàng chấp nhận rủi ro và hiện sống ở nông thôn có xu hướng muốn di trú tới các khu đô thị và vùng phụ cận đô thị hơn. Nếu họ có ng??ời thân đang an cư lạc nghiệp ở những nơi họ muốn đến, thì yếu tố này thúc đẩy họ di cư mạnh mẽ hơn. Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của quan hệ thân tộc.
Điểm đáng chú ý nữa là mức độ phát triển của một địa phương cũng là lực hấp dẫn dân nhập cư, trong khi yếu tố tăng thu nhập cá nhân không phải là động cơ tiên quyết dẫn tới di cư.
Dự đoán tác động của biến đổi khí hậu tới di cư
Trên thế giới, mối quan ngại cho rằng biến đổi khí hậu sẽ dẫn đến bùng nổ di cư quốc tế, hay còn gọi là “tị nạn khí hậu”. Báo cáo của tổ chức Climate Central dự báo, biến đổi khí hậu sẽ tác động mạnh tới Việt Nam. Theo đó, khoảng 31 triệu ng??ời ở Việt Nam, tương đương khoảng một phần ba dân số, có thể bị ảnh hưởng bởi nước biển dâng. Thông tin này có thể khiến một số ng??ời di rời Đồng bằng sông Cửu Long, và có thể dẫn tới gia tăng số ng??ời “tị nạn khí hậu” trong tương lai.
Để đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, cụ thể hơn là thông tin về biến đổi khí hậu, đối với mong muốn di cư, khảo sát PAPI năm 2020 thêm một số câu hỏi thí nghiệm tìm hiểu tác động của thông tin về rủi ro mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu và bản đồ chỉ rõ những vùng đất có thể bị ngập lụt tới khả năng di cư của ng??ời dân. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỉ lệ ng??ời trả lời trong nhóm đối chứng (nhóm thứ nhất) mong muốn di cư thấp hơn bốn nhóm còn lại. Tỉ lệ ng??ời muốn di cư tăng lên đáng kể khi ng??ời trả lời được cung cấp thêm thông tin về biến đổi khí hậu. Khi có thêm thông tin về khả năng ngập lụt do mực nước biển dâng, số ng??ời trả lời sẵn sàng di cư tăng từ 8% lên khoảng 12%.
Điều thú vị từ nghiên cứu thực nghiệm này là khi đưa thêm thông tin về việc một quan chức bày tỏ sự nghi ngờ về phát hiện nghiên cứu của tổ chức Climate Central về tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Khi nhận thêm thông tin này, mức độ sẵn sàng di cư giảm từ 12,3% xuống 10,8% (tỉ lệ trong nhóm thứ tư). Tuy nhiên, khi bản đồ vùng bị ngập lụt được thêm vào, thông tin về phản ứng của vị quan chức không còn gây tác động mạnh như thông tin về mực nước biển dâng qua hình ảnh. Lúc này, tỉ lệ ng??ời trả lời muốn di cư lại là hơn 13%. Qua đó có thể thấy rằng, thông tin khoa học càng chi tiết, sự ngờ vực càng giảm đi, do vậy việc tiếp nhận thông tin khoa học càng tốt.
Có thể nói, theo nghiên cứu PAPI 2020, có một khoảng cách đáng kể về mức chênh lệch trong cảm nhận và trải nghiệm của hai nhóm dân cư tạm trú và thường trú về hiệu quả quản trị và hành chính công ở các tỉnh, thành phố khảo sát thí điểm. Nỗ lực thu hẹp những khoảng cách này tương đương nỗ lực của chính quyền của một tỉnh muốn đưa tỉnh mình trong nhóm 5 tỉnh cuối cùng của cả nước lên 5 tỉnh đứng đầu trên Chỉ số PAPI. Điều này có nghĩa là các tỉnh, thành phố tiếp nhận ng??ời di cư sẽ cần phải nỗ lực gấp đôi để giải quyết thỏa đáng nhu cầu (3) và mong đợi của cả ng??ời có hộ khẩu thường trú và hộ khẩu tạm trú. Có lẽ đã đến lúc Việt Nam cân nhắc xóa bỏ phân loại chế độ hộ khẩu và áp dụng mã số định danh phổ thông để mọi ng??ời dân đều có thể tiếp cận các dịch vụ quản trị và dịch vụ công như nhau ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước./.
Để đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, cụ thể hơn là thông tin về biến đổi khí hậu, đối với mong muốn di cư, khảo sát PAPI năm 2020 thêm một số câu hỏi thí nghiệm tìm hiểu tác động của thông tin về rủi ro mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu và bản đồ chỉ rõ những vùng đất có thể bị ngập lụt tới khả năng di cư của ng??ời dân. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỉ lệ ng??ời trả lời trong nhóm đối chứng (nhóm thứ nhất) mong muốn di cư thấp hơn bốn nhóm còn lại. Tỉ lệ ng??ời muốn di cư tăng lên đáng kể khi ng??ời trả lời được cung cấp thêm thông tin về biến đổi khí hậu. Khi có thêm thông tin về khả năng ngập lụt do mực nước biển dâng, số ng??ời trả lời sẵn sàng di cư tăng từ 8% lên khoảng 12%.
Điều thú vị từ nghiên cứu thực nghiệm này là khi đưa thêm thông tin về việc một quan chức bày tỏ sự nghi ngờ về phát hiện nghiên cứu của tổ chức Climate Central về tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Khi nhận thêm thông tin này, mức độ sẵn sàng di cư giảm từ 12,3% xuống 10,8% (tỉ lệ trong nhóm thứ tư). Tuy nhiên, khi bản đồ vùng bị ngập lụt được thêm vào, thông tin về phản ứng của vị quan chức không còn gây tác động mạnh như thông tin về mực nước biển dâng qua hình ảnh. Lúc này, tỉ lệ ng??ời trả lời muốn di cư lại là hơn 13%. Qua đó có thể thấy rằng, thông tin khoa học càng chi tiết, sự ngờ vực càng giảm đi, do vậy việc tiếp nhận thông tin khoa học càng tốt.
Có thể nói, theo nghiên cứu PAPI 2020, có một khoảng cách đáng kể về mức chênh lệch trong cảm nhận và trải nghiệm của hai nhóm dân cư tạm trú và thường trú về hiệu quả quản trị và hành chính công ở các tỉnh, thành phố khảo sát thí điểm. Nỗ lực thu hẹp những khoảng cách này tương đương nỗ lực của chính quyền của một tỉnh muốn đưa tỉnh mình trong nhóm 5 tỉnh cuối cùng của cả nước lên 5 tỉnh đứng đầu trên Chỉ số PAPI. Điều này có nghĩa là các tỉnh, thành phố tiếp nhận ng??ời di cư sẽ cần phải nỗ lực gấp đôi để giải quyết thỏa đáng nhu cầu (3) và mong đợi của cả ng??ời có hộ khẩu thường trú và hộ khẩu tạm trú. Có lẽ đã đến lúc Việt Nam cân nhắc xóa bỏ phân loại chế độ hộ khẩu và áp dụng mã số định danh phổ thông để mọi ng??ời dân đều có thể tiếp cận các dịch vụ quản trị và dịch vụ công như nhau ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước./.
Thu Hường
Trang web cá cược Lucky Cow